Xin chào các bạn đọc giả thân mến, nhắc đến Graphic design chắc hẳn chúng ta không thể bỏ qua cái tên Typography. Để trở thành một nhà thiết kế giỏi thì việc không ngừng học tập và nghiên cứu về Typography là việc không thể bỏ qua. Muốn giỏi về Typography trước tiên bạn hãy học cách yêu Typo, mà muốn yêu một cái gì đó chúng ta cần biết về nguồn gốc của chúng đúng không nào. Như kiểu ” Thương nhau thương cả tông ti họ hàng đó mà :))) “. Chính vì thế chủ đề hôm này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về sự ra đời và phát triển của Typo nhé.
Cội nguồn con chữ
Sự hình thành của con chữ không bắt nguồn từ bản chất của nó mà gắn liền với sự hình thành và phát triển của văn minh nhân loại. Chữ viết bắt nguồn từ cuộc sống của những người nguyên thủy trong hang đá, phát triển song hành với sự hình thành của văn minh đời sống, dẫn đến sự hình thành bảng chữ cái và kế đến phát minh ra chữ và kỹ thuật in ấn.
Để hiểu sâu hơn về sự phát triển của con chữ từ lúc hình thành cho đến ngày nay, chúng ta sẽ cùng đi qua một vài cột mốc quan trọng trong lịch sử hình thành chữ. Vài thời điểm, niên đại và chi tiết có thể khác nhau bởi nhiều nguồn tư liệu nhưng bản chất của các sự kiện vẫn như nhau, là diễn biến của một quá trình vinh quang bắt đầu từ những hình vẽ thô sơ trong hang động cho đến những bit, byte của ký tự kỹ thuật số sau này.
1. Pictograms, ideograms, và phonograms
Vào khoảng những năm 20.000 TCN, các bức tranh trong hang động là bằng chứng đầu tiên của việc ghi chép lại hình ảnh. Về sau vào những năm 3500 TCN người Sumerian đã bắt đầu giao tiếp bằng chữ viết. Họ lưu trữ những câu chuyện và những thứ cần thiết thông qua các hình ảnh đơn giản được khắc trên đá – được gọi là chữ tượng hình Pictograms
Theo thời gian nền văn minh trở nên tiên tiến hơn, nhu cầu giao tiếp khái niệm phức tạp hơn. Chính là vào khoảng năm 3000 TCN, chữ tượng hình Ideograms ra đời. Ideograms bắt nguồn từ chữ Ai Cập kết hợp với các biểu tưởng đại diện cho suy nghĩ hay ý tưởng, cho phép sự biểu hiện các khái niệm trừu tượng hơn so với chữ tượng hình Pictograms. Một biểu tượng con bò có thể có nghĩa là thực phẩm, biểu hiện của ánh mặt trời kết hợp với các biểu tượng cho một người đàn ông có thể ban thánh thể tuổi già hoặc cái chết.
Chữ số la mã (Roman) ngày nay chúng ta thường dùng sử dụng chính các chữ tượng hình Ideograms. I, II, III – đại diện cho các ngón tay, V – đại diện cho bàn tay mở, IV – bàn tay mở trừ đi 1 ngón.
Năm 1600 TCN, người Phoenician đã phát hiện biểu tượng cho âm thanh gọi là Phonograms. Họ gọi con bò là aleph, được sử dụng để đại diện cho âm thanh "A" và gọi nhà là beth, đại diện cho âm thanh "B". Ngoài âm thanh, ghi âm cũng có thể là lời nói.
Ngày nay bảng chữ cái của chúng ta vẫn còn chứa nhiều chữ tượng thanh như: % cho phầm trăm, ? cho câu hỏi, $ cho đồng USD.
2. Bảng chữ cái alphabet
Người Phoenicia được ghi nhận là những người phát triển thực sự đầu tiên bảng chữ cái alphabet- một tập hợp các biểu tượng đại diện cho âm thanh ngữ nói, mà có thể được kết hợp để đại diện cho ngôn ngữ nói.
Vốn là một xã hội phát triển có nhiều thương gia đi biển, họ giao dịch với nhiều nền văn hóa, truyền bá chữ cái của họ trên khắp thế giới phương Tây. Khoảng 1.000 TCN, bảng chữ cái Phoenician được phát triển từ những người Hy Lạp, người đã phát triển nghệ thuật của chữ viết tay (handwriting) ra nhiều phong cách. Bảng chữ cái bắt nguồn từ hai chữ cái Hy Lạp đầu tiên là alpha và beta.
Vài trăm năm sau đó, người La Mã sử dụng bảng chữ cái Hy Lạp như là cơ sở cho các chữ cái viết hoa mà chúng ta biết ngày nay. Họ rất tinh thông nghệ thuật handwriting, tạo ra nhiều phong cách đặc trưng của chữ mà họ sử dụng cho các mục đích khác nhau.
Họ tả một cách cứng cáp, kịch bản chính thức dành cho bản thảo quan trọng và các văn bản chính thức và một phong cách không chính thức công nhanh hơn cho các chữ cái và các loại thông thường của văn bản. By AD 100, người La Mã đã phát triển một ngành công nghiệp sách phồn thịnh và, như chữ viết tay Roman tiếp tục phát triển, chữ thường và hình thức thô của dấu chấm câu được dần thêm vào.
3. Johanner Gutenberg và in ấn
Thế kỷ XV là thời điểm then chốt cho giao tiếp bằng văn bản. Bản thảo được trân trọng như một thứ của cải hiếm khi xuất hiện bên ngoài tu viện hoặc các tòa án của hoàng gia. Chữ viết được dành riêng cho những đặc quyền đặc lợi. Trong thực tế, không đến 1/10 dân số châu Âu có thể đọc.
Năm 1448, mọi thứ thay đổi với sự ra đợi của ngành in. Johanner Gutenberg, một thợ kim hoàn từ Mainz-Đức, đã phát minh ra phương pháp in dấu. Phát minh này thưc sự đã làm thay đổi thể giới, không còn những người chép thuê vất vả hàng tháng, hàng năm, thậm chí cả đời để chép tay những cuốn sách. Trong khi người ta thường nói Gutenberg phát minh ra cả báo chí in và các bản chữ kim loại, thực tế không phải vậy. In ấn đã được sử dụng vài trăm năm ở Trung Quốc và ít nhất vài thập kỷ ở châu Âu. Mặc dù còn thô sơ nhưng con chữ kim loại đã được đúc thành công một vài năm trước đây ở Hà Lan. Tuy nhiên chính Johann Gutenberg đã làm cho những công nghệ trước đó trở nên thiết thực hơn.
Trong 50 năm tiếp theo là sự bùng nổ của in ấn trên toàn châu Âu, và vào năm 1500, hơn 10 triệu bản của gần 3500 tác phẩm đã được in và phát hành. Sự lan rộng chưa từng có về kiến thức kỹ thuật và xã hội lan truyền khắp thế giới phương Tây. Việc phổ cập giáo dục được bắt đầu.
Lời kết
Và đó là một chút thông tin về cột mốc và sự kiện hình thành và phát triển con chữ. Hy vọng các bạn đã thu thập thêm được 1 vài kiến thức và có những phút giây vui vẻ. Cảm ơn các bạn đã đọc bài viết và cùng đón chờ những phần mới về Typographic tiếp theo nhé.